Là thương hiệu bán chó Labrador Retriever uy tín nhất Việt Nam, VAAT không chỉ đem đến cho gia đình bạn một chú cún nhỏ mà còn cung cấp những thông tin cần thiết để khách hàng thực sự thấu hiều về dòng chó phổ biến này.
Labrador Retriever, hay đơn giản Labrador, là loại chó săn – tha mồi lớn, một trong số những giống chó phổ biến nhất ở Canada, Vương quốc Anh và Mỹ.
Labrador là giống chó hỗ trợ người tàn tật phổ biến ở nhiều quốc gia, chúng thường được huấn luyện để giúp đỡ những người khiếm thị, tự kỷ, làm chó trị liệu, hoặc thực hiện công việc dò tìm và phát hiện cho cơ quan thực thi pháp luật và những cơ quan khác. Bên cạnh đó, chúng còn được đánh giá cao trong thể thao và săn bắn.
Có một vài trại nhân giống tổ tiên của chúng, giống chó lội nước St. John, ở Anh. Vào những năm 1830, Bá tước Home thứ 10 và người cháu họ của ông, Công tước Buccleuch thứ 5, và Lãnh chúa John Scott, đã nhập những con chó giống từ Newfoundland về châu Âu để sử dụng làm chó săn. Một người khác cũng ủng hộ giống Newfoundland là Bá tước Malmesbury thứ 2 vì ông đánh giá cao khả năng săn chim nước của chúng.
Đến những năm 80 của thế kỷ 19, Bá tước Malmesbury thứ 3, Công tước Buccleuch thứ 6 và Bá tước Home thứ 12 đã cùng nhau lai tạo và nhân giống chó Labrador hiện đại. Malmesbury đã tặng Buccleuch hai chú chó Buccleuch Avon và Buccleuch Ned để phối giống với chó cái mang dòng máu của những chú chó do Công tước thứ 5 và Bá tước Home thứ 10 nhập về. Lứa chó sinh ra chính là tổ tiên của giống Labrador hiện đại.
LỊCH SỬ VÀ NGUỒN GỐC
Nguồn gốc
Tổ tiên của giống Labrador hiện đại có nguồn gốc từ hòn đảo Newfoundland, ngày nay là một tỉnh của Newfoundland & Labrador, Canada. Giống chó được dùng để lai tạo ra giống Labrador là chó lội nước St. John, được những cư dân đầu tiên trên hòn đảo này nhân giống vào thế kỷ 16. Tổ tiên của giống chó St. John vẫn chưa được biết đến, nhưng người ta tin rằng chúng được lai tạo ngẫu nhiên giữa các giống chó làm việc của Anh, Ireland và Bồ Đào Nha. Giống Newfoundland (trước đây được gọi là Greater Newfoundland) có thể là con lai giữa chó St. John và chó ngao được những ngư dân đánh cá xa bờ mang ra hòn đảo từ thế kỷ thứ 16. Giống St. John lông ngắn (trước đây được gọi là Lesser Newfoundland) được sử dụng để tha mồi và kéo lưới từ dưới nước. Chúng chính là tổ tiên của giống Labrador Retriever. Những đặc điểm của giống St. John như ngực, bàn chân, cằm và mõm trắng, bớt kiểu áo vét… cũng xuất hiện ở giống chó Lab lai hiện đại, và thỉnh thoảng có ở giống Labrador với biểu hiện đốm trắng nhỏ trên ngực (hình huy chương) hoặc một nhúm lông trắng trên bàn chân hoặc mõm.
Tổ tiên
Có một số mô tả ban đầu về giống chó lội nước St. John. Năm 1822, nhà thám hiểm W.E. Cormack đã đi bộ qua hòn đảo Newfoundland. Trong nhật ký của mình, ông viết: “Những chú chó ở đây rất dễ huấn luyện hoặc có ích vì biết tha mồi ở dưới nước… Chúng được ưa thích nhờ có bộ lông mượt và ngắn, không bị đóng băng sau khi ra khỏi nước trong thời tiết giá lạnh”
Những ghi chép ban đầu của Colonel Hawker mô tả giống chó này là: “giống chó tốt nhất dành cho săn bắn. Chúng thường có lông đen và không lớn hơn giống Pointer, tứ chi đẹp, lông ngắn, và mượt, và đuôi không cuộn vào; chúng di chuyển, bơi và chiến đấu nhanh nhẹn…và có khứu giác tuyệt vời.”
Người ta cho rằng chú chó St. John đầu tiên được đưa đến Anh vào khoảng năm 1820, nhưng chúng đã nổi tiếng ở đây từ trước đó; có một câu chuyện về Bá tước Malmesbury đệ Nhị đã nhìn thấy chú chó St. John trên thuyền đánh cá và lập tức thỏa thuận với người bán để mua một vài chú chó về Anh. Bá tước đã quá ấn tượng với khả năng và kỹ năng tha mồi dưới nước và trên bờ của chúng nên đã dùng toàn bộ các trại nhân giống để nhân giống và ổn định giống chó này.
Trong cuốn sách Chuyến đi Newfoundland trong năm 1839 và 1840 của mình, nhà địa chất Joseph Beete Jukes đã mô tả chó lội nước St. John là “giống chó gầy, lông đen ngắn đã đi từ ngoài khơi đến với chúng ta. Chúng khác với giống Newfoundland Anh mà chúng ta biết. Chúng có mõm mỏng, thuôn, đuôi nhỏ dài, tứ chi mảnh khảnh nhưng mạnh mẽ, và một cơ thể gầy, lông ngắn và mượt. Chúng là giống chó phổ biến nhất ở đất nước này…không đẹp mã, nhưng nhìn chung thông minh và hữu dụng hơn những giống chó khác… Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy chúng nhúng chân xuống nước và ve vẩy. Theo Harvey, chúng dùng bàn chân trắng để “nhử” cá. Điều khiến tôi ấn tượng là họ nói chưa bao giờ huấn luyện chúng làm vậy.”
Tên gọi dòng chó Labrador Retriever
Giống chó gốc của Labrador Retriever ngày nay là chó lội nước chó St. John hay Lesser Newfoundland. Về sau khi được mang đến Anh, chúng dược đặt tên theo vùng đất “Labrador” (Labrador Retriever có nghĩa chúng tha mồi ở biển Labrador) để phân biệt với giống Newfoundland lớn hơn, mặc dù giống này có nguồn gốc từ bán đảo Avalon ở vùng phía Nam.
Những dấu mốc lịch sử
Những tư liệu ghi chép đầu tiên về giống chó này có từ năm 1814 trong một cuốn sách nói về môn thể thao bắn súng săn, rất được ưa chuộng vào thời đó (“Hướng dẫn dành cho những nhà thể thao trẻ” của Colonel Peter Hawker)
Bức tranh đầu tiên vào năm 1823 (“Cora. A Labrador Bitch” của Edwin Landseer) và bức ảnh đầu tiên vào năm 1856 (chú chó “Nell” của Bá tước Home, được mô tả là vừa là chó Labrador vừa là chó St. John).
Đến năm 1870 cái tên Labrador Retriever trở nên phổ biến ở Anh. Chú Labrador màu vàng đầu tiên được ghi chép sinh năm 1899 có tên là Ben of Hyde sinh ra từ trại nhân giống của Major C.J. Radclyffe, Chúng được Câu lạc bộ Chó giống (The Kennel Club) công nhận năm 1903.
Chú chó đầu tiên được đăng ký với Câu lạc bộ chó giống Hoa Kỳ – AKC vào năm 1917.
Trong những năm 1930, xuất hiện chó Labrador nâu, mặc dù từ năm 1892, người ta đã ghi nhận những chú chó có đốm nâu sinh ra ở trại Buccleuch.
Chú chó đầu tiên được có mặt trên trang bìa của tạp chí Life Magazine, số ngày 12, tháng Mười Hai, 1938, là một chú Labrador Retriever màu đen có tên Blind of Arden.
Chó St. John tồn tại đến đầu những năm 1980, hai cá thể chó cuối cùng được chụp ảnh khi đã già vào năm 1981.
MÔ TẢ
Ngoại hình
Labrador là một giống chó có kích thước trung bình, con đực thường nặng từ 29 đến 36 kg và con cái nặng từ 25 đến 32 kg. Phần lớn đặc điểm của giống chó này, trừ màu lông, đều là kết quả của việc nhân giống để tạo ra một dòng chó tha mồi biết làm việc.
Tương tự một số giống chó khác, Labrador hình thể (thường gọi là chó Biếu diễn và chó Labrador Anh) và dòng Labrador lao động (thường gọi là chó “Làm việc” hay chó Labrador Mỹ) có sự khác biệt, dù cả hai đều được nhân giống ở Anh và Mỹ. Tuy nhiên, nhìn chung, chó Labrador hình thể thường có kích thước trung bình, ngắn và vuông vức, khuôn mặt đầy đặn và bản tính hiền lành hơn; trong khi đó, dòng chó Làm việc có thân hình cao và nhỏ nhắn, mũi hơi dài và khuôn mặt hẹp hơn. Tuy nhiên, Labrador làm việc phải cân đối và tuân theo tiêu chuẩn của Câu lạc bộ Chó cảnh Hoa Kỳ. Với dòng chó này, mũi dài, đầu hẹp, chân dài, và khung xương nhỏ quá được coi là không phù hợp với tiêu chuẩn. Nhìn chung hai dòng chó Labrador Anh và Mỹ là những phân loại không chính thức và không được tiêu chuẩn hóa; và dù không được AKC và những câu lạc bộ chó kiểng quy định về đặc điểm khác biệt.
Giống chó này thường rụng lông hai lần một năm hoặc thường xuyên quanh năm ở khí hậu nóng. Một số chó Labrador rụng rất nhiều lông. Chúng thường có bộ lông ngắn, thẳng, và cái đuôi khá lớn, khỏe. Những ngón chân có màng của Labrador Retriever giúp chúng trở thành những tay bơi cừ khôi. Lớp màng giữa các ngón chân cũng đóng vai trò như lớp giày bảo vệ chúng trong thời tiết giá lạnh và tránh tuyết mắc vào giữa các ngón chân – lợi thế hơn những giống chó có lông giữa các ngón chân. Lớp lông của chúng cũng chống thấm nước khá tốt, hỗ trợ việc bơi lội.
Tiêu chuẩn giống chính thức
: Tìm hiểu về chứng viêm túi ở Sóc bay Úc: nguyên nhân và cách xử trí Update 12/2024
Giống Labrador có những đặc điểm rất đa dạng. Dưới đây là những đặc trưng của dòng chó thể hình tại Mỹ và là cơ sở tiêu chuẩn của Câu lạc bộ Chó giống Hoa Kỳ. Những khác biệt lớn giữa dòng chó Mỹ và Anh sẽ được đánh dấu:
- Kích thước: Labrador là giống chó to trung bình. Chiều dài từ u vai đến gốc đuôi phải bằng chiều dài từ u vai đến mặt đất. Tiêu chuẩn của AKC bao gồm cân nặng lý tưởng từ 29-36 kg đối với con đực và 25-32 kg đối với con cái. Theo AKC, Labrador đực phải cao từ 57 đến 62 cm, và Labrador cái cao từ 55 đến 60 cm. Câu lạc bộ Chó giống Anh quy định chiều cao từ 56 đến 57 cm đối với chó đực, và từ 55 đến 56 cm đối với chó cái. Còn đối với FCI, chiều cao lý tưởng của chó đực là 56-57 cm, chó cái là 54-56 cm.
- Bộ lông: Bộ lông của Labrador Retriever phải ngắn và dày, không thô, không thấm nước để giúp chúng không bị lạnh khi xuống nước vào mùa đông. Điều này có nghĩa, lớp lông phải hơi khô và có dầu. Các màu sắc được chấp nhận bao gồm đen, vàng, và nâu sô cô la.
- Đầu: Đầu phải rộng và lông mày hơi nhô ra. Mắt trông hiền lành và biểu cảm, màu nâu hoặc nâu đỏ. Vùng đệm quanh mắt đen. Tai phải rủ xuống gần đầu và nằm hơi cao hơn mắt.
- Hàm: Hàm phải khỏe và mạnh mẽ, hơi cong về phía sau. Mõm dài vừa phải và không được quá thuôn.
- Cơ thể: Mạnh mẽ và cơ bắp.
Cả Câu lạc bộ Chó giống Anh và Mỹ đều coi đuôi và bộ lông là “đặc điểm riêng biệt” của Labrador. AKC còn nhấn mạnh “tính cách của một chú chó Labrador cũng đặc trưng như cái đuôi “rái cá”.
(Xem thêm Bản tiêu chuẩn chó Labrador Retreiver của FCI)
Màu sắc
Labrador Retriever được đăng ký với ba màu lông: đen (tuyền), vàng (sắc độ từ kem đến đỏ lông cáo), và nâu sô-cô-la (trung bình đến sẫm). Một vài chú chó Labrador thuần chủng có màu bạc, nhưng tính thuần chủng của chúng lại gây tranh cãi giữa các chuyên gia trên toàn thế giới, bao gồm các câu lạc bộ và các hội đồng giống chó. Một số câu lạc bộ chó kiểng lớn trên thế giới cho phép đăng ký Labrador lông bạc, nhưng không với danh nghĩa chó lông bạc. Câu lạc bộ Chó giống Anh yêu cầu đăng ký chúng vào hạng mục “không được công nhận”. Thỉnh thoảng, Labrador có nhúm lông trắng trên ngực, móng chân hoặc đuôi; một vài trường hợp có những dải màu vằn vện hay các mảng màu nâu như Rottweiler. Những đặc điểm trên được coi là không đủ tiêu chuẩn tham gia vào các chương trình biểu diễn, nhưng cũng không ảnh hưởng đến tính cách và khả năng làm việc của chúng.
Một lứa chó con có thể có những màu lông khác nhau. Màu sắc được quyết định chủ yếu bởi ba loại gen. Loại gen đầu tiên (B locus) quyết định mật độ hạt sắc tố eumelanin của bộ lông: mật độ hạt càng dày thì lông càng đen, mật độ hạt càng thưa thì lông càng nâu. Loại gen thứ hai (E locus) quyết định sự sản sinh của eumelanin. Một chú chó có alen lặn sẽ chỉ sản sinh ra sắc tố phaeomelanin và sẽ có màu vàng, bất chấp kiểu gen tại locus B. Những gen mà chúng ta biết trước đây đã được phát triển đến locus K, nơi có alen K “đen”. Chó Labrador vàng được xác định tại locus E, vì thế locus K không quyết định màu lông của chúng. Những gen khác quy định những chi tiết nhỏ hơn trong màu sắc của bộ lông. Màu mũi của chó Labrador đen và sô-cô-la sẽ trùng với màu lông.
Sắc tố da và mũi
Những vị trí dễ thấy sắc tố nhất là mũi, môi, lợi, và mi mắt.
Màu sắc của Labrador được quy định bởi rất nhiều gen. Những gen lặn có thể xuất hiện ở các thế hệ sau. Ngoài ra, có những hiệu ứng sắc tố lạ ở các bộ phận cơ thể khác nhau. Hiệu ứng sắc tố xuất hiện ở chó Labrador vàng, và cả chó nâu sô cô la; vì thế, phần lớn bài viết nói về hiệu ứng sắc tố của chó Labrador vàng. Những nơi sắc tố dễ thấy nhất là mũi, môi, lợi, bàn chân, đuôi và mí mắt, chúng thường có màu đen, nâu, nâu vàng sáng (“màu gan”, do hai gen màu sô cô la gây ra), hoặc một số màu khác. Một chú chó Labrador có thể mang gen của nhiều màu sắc khác nhau, ví dụ như Labrador đen có thể mang gen sô cô la hoặc gen vàng lặn, và một chú Labrador vàng có thể mang gen lặn của hai màu còn lại.Kiểm tra DNA có thể cho biết một số đặc điểm. Những sắc tố ít phổ biến hơn (ngoài màu hồng) được coi là lỗi giống, nhưng vẫn được tham gia trình diễn.
Cường độ màu đen ở chó Labrador vàng được quy định bởi một gen khác, không phụ thuộc vào màu lông. Chó Labrador vàng thường có mũi đen, chuyển dần sang hồng khi chúng giàđi (được gọi là “mũi tuyết” hay “mũi mùa đông”). Điều này là do sự suy giảm của enzyme tyrosinase có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sản sinh melanin. Tyrosinase phụ thuộc vào màu sắc – vì thế những màu sáng có thể theo mùa, do mùa đông – và sản sinh ít hơn khi chó lớn từ hai tuổi trở đi. Vì thế, màu mũi của phần lớn chó Labrador vàng trở nên hồng khi chúng già đi.
Cũng xuất hiện màu lông “Dudley”. Chó Labrador màu Dudley được định nghĩa là những chú Labrador vàng với mũi không sắc tố (hồng), hoặc là những chú Labrador vàng với sắc tố nâu nhạt/nâu/sô cô la (AKC), hoặc “màu thịt” và có mi mắt cùng màu, thay vì sắc tố đen và nâu. Một chú Labrador vàng với sắc tố nâu hay sô cô la, ví dụ như mũi nâu hay sô cô la, thì không hẳn là chó Dudley, mặc dù theo tiêu chuẩn hiện tại của AKC, nếu chúng có mí mắt màu sô cô la (hoặc chính xác hơn là kiểu gen eebb) thì chúng chính là chó Dudley.
Chó Labrador Anh và Mỹ:
Hình dáng đầu và mõm: có thể thấy chó Labrador Anh có mõm ngắn và đầu cứng cáp hơn, gốc mũi hơi nhô ra.
Sự nhân giống chuyên biệt đã tạo nên những khác biệt lớn giữa dòng chó Labrador trình diễn và làm việc. Tại Mỹ, dòng chó làm việc thường được gọi là chó Labrador Mỹ và dòng chó trình diễn được gọi là chó Labrador Anh, mặc dù cả hai đều được nhân giống ở Anh và Mỹ. Tại Anh, chúng được gọi là “chó làm việc” và “chó trình diễn”. Những chú chó được nhân giống để săn bắn sẽ được lựa chọn dựa vào khả năng làm việc của chúng, trong khi đó, những chú chó Labrador trình diễn lại được lựa chọn qua yếu tố hình thể đáp ứng được những tiêu chuẩn và đặc điểm được ưa chuộng tại cuộc thi.
Tuy mỗi chú chó lại có sự khác biệt nhưng nhìn chung, chó Labrador trình diễn nặng, ngắn và lông dày hơn. Chó Labrador làm việc thường có chân dài, nhẹ và gầy hơn, giúp chúng nhanh nhẹn hơn. Về phần đầu, chó Labrador biểu diễn thường có đầu rộng hơn, gốc mũi rõ ràng và cổ chắc chắn hơn, trong khi đầu chó làm việc lại hẹp và nhẹ, mõm dài hơn. Chó Labrador làm việc nhiều năng lượng và dễ bị kích động hơn dòng chó Biểu diễn, nên phù hợp với vai trò làm việc thay vì làm “thú cưng của gia đình”. Một số người nhân giống, đặc biệt những người chuyên về chó làm việc, cảm thấy các cuộc thi biểu diễn chó không đánh giá đầy đủ giống chó này, dẫn đến những cuộc tranh luận về việc chính thức chia Labrador thành hai dòng nhỏ khác nhau.
TÍNH CÁCH
Labrador nổi tiếng thông minh và phù hợp với nhiều vai trò làm việc khác nhau, như phát hiện hỏa hoạn.
AKC mô tả tính cách của chó Labrador thân thiện, tốt bụng, hòa đồng và dễ bảo. Khứu giác của chúng giúp ghi nhớ và lần theo nguồn gốc mùi hương. Chúng thường bám theo cho đến khi tìm được mùi đó. Quân đội, hải quân và lực lượng cảnh sát sử dụng chúng làm chó phát hiện, lần theo dấu vết của những kẻ buôn lậu, kẻ trộm, khủng bố và những tay buôn chợ đen. Chó Labrador nổi tiếng với miệng rất mềm, nên được nhân giống để tha mồi. Chúng cũng thích nhai các đồ vật (có thể huấn luyện để chúng bỏ thói quen này).
Labrador được biết đến là một giống chó hiền lành, rất hợp làm thú cưng của cả gia đình. Chúng thân thiện với trẻ em và hòa thuận với những động vật khác. Một số dòng chó, đặc biệt những dòng vẫn đang được nhân giống kỹ năng làm việc (thay vì ngoại hình) thì nhanh nhẹn và khỏe khoắn hơn. Chúng ham vui và không sợ hãi nên cần huấn luyện nghiêm khắc để không trở nên cứng đầu và gây rắc rối khi lớn lên. Chó cái có thể độc lập hơn chó đực. Labrador trưởng thành khi 3 tuổi; trước đó, chúng tràn đầy năng lượng của chó con và thường bị hiểu nhầm là tăng động. Chính vì sự tinh nghịch đó mà người chủ nên sớm huấn luyện chúng đi dạo với dây xích để tránh thói xấu khi trưởng thành. Labrador thường thích chơi ném bắt bóng và những hoạt động khác (như các trò nhanh nhẹn, chạy bắt bóng).
Mặc dù Labrador thường sủa khi nghe thấy tiếng động, đặc biệt nếu không nhìn thấy nguồn phát ra (sủa cảnh báo), nhưng chúng cũng không sủa quá to hoặc có tính bảo vệ lãnh thổ. Chúng thường hòa đồng và tin người lạ, vì thế không phù hợp làm chó bảo vệ.
Labrador là một giống chó tò mò và thích khám phá, chúng đi theo con người và cả những mùi hương thú vị của con người để tìm kiếm thức ăn, sự chú ý và những giá trị mới. Chúng có thể “đột nhiên biến mất” hoặc tách khỏi người chủ mà không ai hay biết. Giống chó này rất thông minh và có thể toàn tâm toàn ý tập trung nếu có động lực hay thấy hứng thú. Vì thế, trong điều kiện và kích thích phù hợp, một chú Labrador đang chán nản có thể sẵn sàng cho một chuyến phiêu lưu. Rất nhiều chú chó bị ăn trộm do bản tính tò mò và khả năng “thoắt ẩn thoắt hiện”. Vì thế, nhiều câu lạc bộ chó và tổ chức cứu hộ (bao gồm Câu lạc bộ Chó giống Mỹ và Anh) khuyến cáo nên gắn chip lên vòng cổ của chúng với tên và địa chỉ của người chủ.
Tính cách kiên định và khả năng học nhanh giúp chúng trở thành giống chó lý tưởng dùng để tìm kiếm và cứu hộ, phát hiện và trị liệu cho bệnh nhân. Labrador là giống chó thông minh, xếp hạng 7 trong cuốn Trí thông minh của loài chó của Stanley Coren. AKC mô tả chúng là nhưng chú chó thể thao và thú cưng lý tưởng trong gia đình nhưng dòng máu làm việc ban đầu vẫn luôn chảy trong chúng.
Được sử dụng như chó làm việc
Labrador là một loại chó săn.
Labrador là giống chó thông minh, có tinh thần làm việc và tính cách tốt. Vai trò của chúng bao gồm: săn, lần theo và phát hiện mồi (khứu giác tuyệt vời giúp chúng thực hiện tốt vai trò này), giúp đỡ người tàn tật, kéo xe và trị liệu. Khoảng 60-70% những chú chó dẫn đường ở Canada là Labrador; những giống chó thường dùng khác là Golden Retriever và German Shepherd. Labrador Retriever đã chứng minh khả năng dẫn đường của mình. Một nghiên cứu được thực hiện gần đây xem bốn giống chó khác nhau (Labrador Retriever, Golden Retriever, Labrador lai Golden, và German Shepherd) có thể được huấn luyện để trở thành chó dẫn đường hay không; kết quả là German Shepherd là giống ít phù hợp nhất. Labrador Retriever và chó lai Labrador Retriever/Golden Retriever là giống phù hợp nhất. Tuy nhiên, German Shepherd và Golden Retriever có tỉ lệ thành công cao hơn nếu được huấn luyện lâu hơn so với Labrador Retriever.
Labrador là những tay bơi cừ khôi và mạnh mẽ, nổi tiếng với khả năng chịu đựng nước lạnh trong một khoảng thời gian dài. Chúng cũng có thể giữ im lặng khi ở cạnh người chủ và theo dõi chim rơi từ trên trời xuống, đánh dấu chỗ chúng rơi và sau đó sử dụng chiếc mũi cực thính để phát hiện và tha mồi về. Chúng cũng được dùng để chỉ điểm và đồng hành cùng chủ trong những cuộc săn trên cạn.
Giống chó này được sử dụng để cứu hộ dưới nước. Ngày nay chúng vẫn duy trì vai trò đó, cùng với Leonberger, Newfoundland và Golden Retriever chúng được sử dụng trong trường học Chó cứu hộ ở Italia.
SỨC KHỎE
: Các loại cá cảnh dữ Update 12/2024
Vào năm 2014, cuộc khảo sát giống chó ở Anh đã báo cáo tuổi thọ trung bình của Labrador Retriever là 12 năm và 3 tháng , với một số con đã sống tới 19 tuổi. Chó Labrador con thường không xuất chuồng trước 8 tuần tuổi. Đây là một giống chó khỏe mạnh với khá ít các bệnh lý; vấn đề lớn nhất là những rối loạn di truyền và béo phì.
Một nghiên cứu của trường Đại học Thú y Hoàng gia và một nghiên cứu khác của Đại học Sydney đã kết luận rằng chó Labrador Sô cô la có tuổi thọ ngắn hơn những chó Labrador màu khác. (khoảng 10%) và dễ mắc các bệnh hơn. Người ta nghĩ rằng đó là do những người nhân giống muốn tăng số lượng chó thông qua nhân giống chọn lọc màu lông bất chấp những đặc điểm sức khỏe quan trọng khác. Bộ lông màu nâu khá hiếm và đã trở nên được ưa chuộng kể từ những năm 1980, và tạo nên nhu cầu lớn.
Những rối loạn di truyền
- Labrador dễ mắc bệnh loạn sản xương hông và loạn sản khuỷu, đặc biệt ở những chú chó to lớn, mặc dù không nhiều bằng những giống khác. Cần đánh giá xương hông và bổ sung khớp trước khi nhân giống.
- Labrador cũng có nguy cơ mắc các vấn đề về đầu gối. Xương bánh chè nơi khớp gối thường bị trật vàđi vào vị trí.
- Các vấn đề về mắt cũng xảy ra ở một vài chó Labradors, đặc biệt là teo võng mạc tiến triển, đục thủy tinh thể, loạn dưỡng giác mạc và loạn sản võng mạc. Những chú chó dùng để nhân giống nên được kiểm tra tại bác sĩ nhãn khoa thú y để kiểm tra mắt.
- Bệnh cơ di truyền, một rối loạn di truyền hiếm gặp gây ra tình trạng thiếu sợi cơ loại II. Triệu chứng bao gồm dáng đi ngắn hoặc “nhảy kiểu thỏ”, và trong một số ít trường hợp là chứng đau cổ kèm tư thế vặn vẹo.
- Một số vấn đề khác bao gồm bệnh tự miễn và điếc ở Labradors, có thể xảy ra khi mới sinh hoặc sau đó.
- Labrador cũng thường suy sụp do tập thể dục, một hội chứng gây tăng thân nhiệt, suy nhược, suy sụp và mất phương hướng sau những lần tập thể dục.
- Trong số tất cả các giống chó, Labrador dễ bị béo phì nhất, một phần do đột biến gen. Xem mục Béo phì dưới đây.
Béo phì
Rất nhiều giống chó, bao gồm cả chó Lab, có màu lông trắng đi khi về già.
Trong tất các các giống chó, Labrador Retriever dễ mắc béo phì nhất. Labrador rất háu ăn, và nếu không có chế độ tập luyện phù hợp hoặc lười biếng sẽ trở nên béo phì. Béo phì là một tình trạng nghiêm trọng và có thể coi là một vấn đề dinh dưỡng số một ở các giống chó. Một nghiên cứu đã chỉ ra ít nhất 25% chó ở Mỹ bị thừa cân. Vì thế, Labrador cần phải được luyện tập và kích thích đầy đủ. Một chú chó Labrador khỏe mạnh có thể bơi trong hai tiếng và có thân hình đồng hồ cát, vừa vặn, nhẹ nhàng thay vì béo và nặng nề.Béo phì có thể khiến những bệnh khác như loạn sản xương hông và các vấn đề xương khớp trầm trọng hơn, và có thể dẫn đến các bệnh thứ cấp, bao gồm tiểu đường. Viêm xương khớp cũng rất phổ biến ở chó Labrador già và thừa cân. Một nghiên cứu trong 14 năm trên 48 chú chó do nhà sản xuất Purina tiến hành đã cho thấy chó Labrador được cho ăn uống khoa học sống lâu hơn những chú chó được cho ăn tự do khoảng hai năm. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc chế độ ăn vừa phải. Chó Labrador cần được dắt đi dạo 2 lần một ngày trong ít nhất 2 tiếng.
Chó Labrador thường ưa nước
CHÓ LABRADOR XUẤT HIỆN TRÊN KHẮP THẾ GIỚI
Tại Mỹ, giống chó này được công nhận rộng rãi sau bài báo của Câu lạc bộ Chó giống năm 1982 “Gặp gỡ chó Labrador Retriever”. Trước đó, AKC chỉ ghi nhận 23 chú chó giống Labrador được đăng ký tại Mỹ, một phần vì Mỹ và Anh có những tiêu chuẩn khác nhau. Labrador nổi tiếng là giống chó săn trong những năm 1920 và đặc biệt sau chiến tranh Thế giới thứ II, khi người ta nhận thấy chúng có những đặc điểm tốt nhất của hai giống chó được yêu thích của nước Mỹ là chó tìm kiếm và chó nước.
Ngoài lãnh thổ Bắc Mỹ và Tây Âu, chó Labrador được du nhập muộn hơn. Ví dụ, Câu lạc bộ chó Retriever Nga truy xuất nguồn gốc của chúng từ cuối những năm 1960, khi đó chúng được nuôi làm thú cưng của những nhà ngoại giao và những người khác trong bộ Ngoại giao. Việc thành lập giống chó ở Cộng đồng các quốc gia độc lập (trước là USSR) ban đầu bị cản trở do số lượng chó Labrador ít và khoảng cách xa. Đầu những năm 1980, người ta vẫn thường nhập chó từ nước ngoài để bổ sung cho những chú chó được sinh ra trong nước. Những khó khăn ban đầu dẫn đến việc chó Labrador phải được lai tạo với những giống retriever khác. Trong những năm 1990, chính việc tiếp cận với nước ngoài đã giúp hợp thức hóa tình trạng này.
Phân bố
Chó Labrador cực kỳ phổ biến. Ví dụ như năm 2006:
- Được coi là giống chó phổ biến nhất thế giới
- Giống chó được nuôi nhiều nhất tại Úc, Canada, Israel, New Zealand, Anh và Mỹ (từ năm 1991)
- Ở cả Anh và Mỹ, số chó Labrador được đăng ký cao hơn gấp đôi giống chó xếp thứ hai trong danh sách những giống chó phổ biến. Nếu chỉ giới hạn so sánh giống chó cùng kích thước thì số chó Labrador được đăng ký cao gấp 3-5 lần giống chó đứng sau là German Shepherd Dog và Golden Retriever.
- Giống chó hỗ trợ phổ biến nhất ở Mỹ, Úc và nhiều nước khác, cũng như được cảnh sát và các cơ quan chức năng sử dụng vì khả năng phát hiện và làm việc. Khoảng 60-70% các chó dẫn đường ở Mỹ là Labrador (xem bên dưới).
- Bảy trong số 13 chú chó được đề cử “Chó săn xuất sắc” của Hội đồng Chó cảnh Quốc gia Australia thuộc giống Labrador.
Không có số lượng đăng ký của Labrador trên toàn thế giới, hay thông tin chi tiết số lượng chó Labrador ở mỗi quốc gia. Những quốc gia có số lượng chó Labrador được đăng ký lớn nhất năm 2005 là: 1. Vương quốc Anh, 2. Pháp và Mỹ (xấp xỉ nhau), 4: Thụy Điển, 5. Phần Lan. Thụy Điển và Phần Lan có dân số thấp hơn hẳn so với ba quốc gia còn lại, có nghĩa trong năm 2005, hai nước này có tỷ lệ Labrador trên một triệu dân cao nhất. Do không có số lượng đăng ký trên toàn thế giới, nên rất khó chắc chắn tỷ lệ phần trăm đăng ký chó Lab chính thức ở các nước như Mỹ nhỏ hơn, hay lượng chó trên đầu người thực sự nhỏ hơn.
Quốc gia Dân số Số Labrador đăng ký Số chó đăng ký trên số 1 triệu dân Phần Lan 5.2 2,236 426.0 Pháp 60.5 9,281 153.4 Thụy Điển 9.0 5,158 570.5 Vương Quốc Anh 59.7 18,554 311.0 Mỹ 307.0 10,833 36.3
Thống kê của OFA cho thấy số lượng chó Labrador vàng và đen được đăng ký tương đương nhau (chó vàng nhiều hơn chó đen một chút); số lượng chó nâu ít hơn.
Lưu ý: Số lượng đăng ký không nhất thiết bằng với số chó sống tại thời điểm đó.
Labrador Retriever trong chiến tranh Việt Nam
Chó Labrador nâu sô-cô-la được quân đội lựa chọn để lần theo dấu vết nhờ vào khứu giác tuyệt vời.của chúng.
Chiến tranh Việt nam là chiến tranh duy nhất trong lịch sử Mỹ mà chó tham gia chiến tranh, với tên gọi chính thức thời đó là “chó làm việc của quân đội” không được phép trở về sau chiến tranh. Chúng được phân loại là “thiết bị dùng một lần”, Gần 4,000 chú chó được sử dụng ở chiến tranh Viêt www.vaat.org.au tính toán, chỉ có khoảng 200 chú chó sống sót và tiếp tục được sử dụng trong những nhiệm vụ ở nước ngoài. Ngoài ra, số chó chưa bị chết sẽ bị an tử hoặc bỏ lại.
Giống chó được quân đội sử dụng nhiều nhất trong Chiến tranh Việt Nam là German Shepherd Dog với vai trò chó Dò mìn, Trinh sát, Canh Gác và Chó nước để phát hiện kẻ thù dưới nước ở miền Nam Việt Nam. Labrador Retriever là sự lựa chọn của quân đội cho Nhóm lần theo dấu vết (CTTs). Nhóm này bao gồm 1 chó Labrador và 4 hoặc 5 lính: 1 người chỉ huy chó, 1 người quan sát, 2 người yểm trợ và 1 trưởng nhóm. Labrador được quân đội lựa chọn để lần theo dấu vết nhờ vào khứu giác tuyệt vời, giúp phát hiện vị trí của những người lính bị thương, lính tuần tra của kẻ địch và hạ gục phi công đồng minh ở Việt Nam. Chó Labrador của quân đội Mỹ được huấn luyện ở Trường học Chiến tranh rừng rậm của Quân đội Anh ở Malaysia.
Trong số hơn 4000 chó chiến tranh Mỹ phục vụ trong chiến tranh Việt nam, 232 con đã bị giết chết, và 295 người lính chỉ huy chó hy sinh. Chỉ huy chó Robert W. Hartsock đã được trao Huân chương Danh dự. Sáu chú chó Labrador trong Nhóm lần theo dấu vết của Quân đội Mỹ thứ 62 và 63 bị giết chết khi đang làm nhiệm vụ. Trong suốt thời gian chiến tranh quân đội Mỹ đã mất 204 chú chó, trong khi lực lượng Hải quân và Không quân mất lần lượt 13 và 15 chú chó.
Tháng 11 năm 2000, Tổng thống Bill Clinton đã ký bộ luật sửa đổi cho phép những chú chó chiến tranh đã nghỉ hưu được người ngoài quân đội nhận nuôi, được rời khỏi Việt Nam vì đó là cuộc chiến duy nhất những chú chó không được phép quay về.
NHỮNG CHÚ CHÓ LABRADOR NỔI TIẾNG
Là giống chó được nuôi nhiều nhất ở nhiều quốc gia nên có rất nhiều chú chó Labrador nổi tiếng trong lịch sử, bao gồm:
Chó hỗ trợ
- Endal, một chú chó Labrador hỗ trợ người khiếm thị nổi tiếng ở Anh. Trong số những chú chó nổi tiếng nhất (bao gồm “Chú chó thiên niên kỷ” và Huân chương vàng PDSA cho những động vật có cống hiến), Endal là chú chó đầu tiên được ngồi trên London Eye và biết dùng thẻ ATM. Khi Endal chết và tháng Ba, 2009, nó và người chủ Allen Parton đã được nhiều nhóm quay phim và có một bộ phim về bản thân mình.
- Sully làm nhiệm vụ phục vụ cho cựu Tổng thống Hoa Kỳ George HW Bush trong sáu tháng cuối đời của ông. Cựu tổng thống Bush cha bị mắc căn bệnh Parkinson và thường xuyên phải sử dụng xe lăn, chú chó Labrador Sully đã hỗ trợ ông trong việc đóng, mở cửa; nhặt đồ đánh rơi… chú chó Labrador đã có vinh dự được góp mặt trong tang lễ của vị cố nguyên thủ và hiện nay có hẳn một trang Instagam riêng với 274 ngàn người theo dõi.
Chó phát hiện, cứu hộ của quân đội, cảnh sát
- Zanjeer (“Chain”hoặc “Shackles”), là một chú chó phục vụ quân đội trong vụ đánh bom liên hoàn tại Mumbai năm 1993. Trong suốt thời gian đó, nó đã phát hiện 57 quả bom, 157 bom xăng, 11 vũ khí cấp quân sự, 242 đại bác và 600 kíp nổ. Chiến công lớn nhất của nó cho lực lượng cảnh sát và thành phố là phát hiện 3329kg RDX. Nó cũng đánh hơi ra 18 súng trường loại 56 và năm súng ngắn 9mm.
- Lucky và Flo, hai con chó Labrador đen phát hiện đồ giả đã trở nên nổi tiếng vào năm 2007 vì đã “đánh hơi gần 2 triệu DVD giả” trong một lần biệt phái sáu tháng tới Malaysia vào năm 2007. Sau vụ phát hiện nhiều triệu đô la, bắt giữ 6 người Malaysia, chúng đã trở thành những chú chó đầu tiên được trao “Giải thưởng chó phục vụ xuất sắc” của Malaysia và người ta cho rằng những tay trộm cắp phần mềm đã ký hợp đồng trị giá 30.000 bảng cho cuộc sống của chúng.
- Sarbi, một chú chó phát hiện bom cho lực lượng đặc biệt Úc đã mất tích khi đang làm nhiệm vụ gần 14 tháng trước khi được tìm thấy trong trạng thái khỏe mạnh năm 2009.
- Jake, một chú chó Labrador Mỹ màu đen nổi tiếng phục vụ tìm kiếm và cứu hộ sau vụ khủng bố 11 tháng 9 và cơn bão Katrina. (Xem ảnh)
- Salty và Roselle, được trao Huân chương Dickin vì sự tận tụy khi phục vụ trong xung đột quân sự. Hai chú chó dẫn đường, đã đưa những người chủ khiếm thị qua hơn 170 bậc cầu thang để thoát khỏi tòa Trung tâm Thương mại thế giới tháng 9, 2001.
- Sadie, được trao Huân chương Dickin vì sự tận tụy khi phục vụ trong xung đột quân sự, đã phát hiện những thiết bị phát nổ, sau đó đã bị giải giáp, trong khi phục vụ Trung đoàn Hoàng gia Gloucestershire, Berkshire và Wiltshire.
- Sasha, được trao Huân chương Dickin vì sự tận tụy khi phục vụ trong xung đột quân sự đã định vị 15 thiết bị phát nổ tự chế, súng cối, mìn và vũ khí trong khi phục vụ ở Afghanistan, với Quân đoàn thú y của Quân đội Hoàng gia. Vào tháng 7 năm 2008, Sasha và người chỉ huy của nó hy sinh trong một cuộc phục kích của Taliban bởi một quả lựu đạn phóng bằng tên lửa.
Thú cưng của nguyên thủ
- Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton nuôi hai chú Labrador tên Buddy và Seamus.
- Chú chó Labrador của tổng thống Nga Vladimir Putin có tên Konni
Sách và truyền thông
- Brian Griffin trong phim hoạt hình Family Guy là một chú Labrador trắng.
- Chú chó Bouncer trong Neighbours, và Luath trong The Incredible Journey cũng là những chú chó Labrador nổi tiếng trên truyền hình.
- Marley là một chú chó Labrador Mỹ xuất hiện trong Marley & Me, cuốn sách bán chạy nhất của John Grogan, và bộ phim dựa trên cuộc đời của ông và thời gian bên Marley.
- Trong bộ phim Old Yeller năm 1957, nhân vật chính là chó lai Labrador Retriever / English Mastiff màu vàng.
- Trong bộ phim Madeline năm 1998, Genevieve là chó lai Labrador / Golden Retriever màu vàng trắng.
- Trên loạt phim truyền hình dành cho trẻ em Big Barn Farm của BBC, Digger là một chú chó Labrador màu vàng.
- Rowdy trong Scrub là một giống chó Labrador Retriever vàng có liên quan đến nhiều trò đùa khác nhau trong chương trình.
- Vincent trong Lost là một chú chó giống Labrador Retriever màu trắng.
- Zuma trong PAW Patrol là một chú Labrador Retriever trắng.
- Pharaoh, Isis, và Tiaa là những chú chó Labrador Retriever vàng trong phim truyền hình Downton Abbey.
- Brandeis, một chú Labrador Retriever vàng, là một nhân vật phụ trong Sesame Street với vai chó hỗ trợ.
- Peanutbutter, một chú Labrador Retriever được nhân hóa, trong phim hoạt hình BoJack Horseman.
- Krypto , chú chó của Superman, là một chú chó giống Labrador Retriever màu trắng.
Linh vật và quảng cáo
- Từ năm 1972, một chú chó Labrador màu vàng được biết đến với cái tên Andrex Puppy đã là một biểu tượng quảng cáo cho khăn giấy vệ sinh Andrex (Cottonelle).
TÙNG LỘC PET LÀ THƯƠNG HIỆU BÁN CHÓ LABRADOR UY TÍN TẠI VIỆT NAM
Các bạn có nhu cầu tham khảo giá chó Labrador, hoặc tư vấn dịch vụ phối giống chó Labrador nhập ngoại, vui lòng đặt lịch xem chó trước qua điện thoại theo số 0826880528 (Tại Hà Nội) và 0982880528 (tại TP HCM) hoặc nhắn tin qua Fanpage chính thức của Tùng Lộc Pet.
Xin chân thành cảm ơn!
Giám đốc
Trần Khánh Tùng
: Nên cho Chồn sương ăn gì? Khẩu phần ăn đúng chuẩn của thú cưng Update 12/2024